Thời điểm bị đơn được đưa ra yêu cầu phản tố trong vụ án dân sự
Sau khi tòa án thụ lý vụ án và yêu cầu bị đơn gửi ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn, Bị đơn, ngoài việc nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, còn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (khoản 1 Điều 200 của BLTTDS năm 2015).
Nghĩa là quyền yêu cầu phản tố của bị đơn phát sinh sau khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án hoặc Thông báo thụ lý đơn yêu cầu độc lập của Tòa án.
1. Nội dung yêu cầu phản tố:
Yêu cầu phản tố chỉ được chấp nhận khi thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Ví dụ: Nguyên đơn A có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn B phải trả tiền thuê nhà còn nợ của năm 2020 là năm mươi triệu đồng. Bị đơn B có yêu cầu đòi nguyên đơn A phải thanh toán cho mình tiền sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền thuế sử dụng đất mà bị đơn đã nộp thay cho nguyên đơn là 30 triệu đồng.
Trường hợp này, yêu cầu của bị đơn B được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn A. Như vậy, nghĩa vụ bù trừ ở đây là nghĩa vụ trả tiền cụ thể số tiền bên B nợ tiền thuê nhà của bên A có thể được bù trừ với số tiền bên B đã bỏ ra sửa chữa căn nhà.
2. Hình thức yêu cầu phản tố
Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn”.
Như vậy, việc thực hiện quyền phản tố của bị đơn phải tuân thủ hình thức như khởi kiện của một vụ việc, nghĩa là bị đơn phải có đơn yêu cầu phản tố bằng văn bản và gửi tới Toà án, sau đó phải thực hiện nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí như nguyên đơn. Thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ được tính lại kể từ ngày bị đơn nộp tạm ứng án phí hoặc trong trường hợp bị đơn được miễn án phí thì tính từ ngày Toà án nhận được đơn phản tố.
Bên cạnh những yếu tố về trình tự, thủ tục thì hậu quả pháp lý cũng thay đổi cơ bản nếu như bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố. Cụ thể, thay vì trước kia bị đơn không có nghĩa vụ chứng minh cho ý kiến của mình thì bây giờ bị đơn phải chủ động trong việc chứng minh yêu cầu phản tố của mình.
3. Thời điểm bị đơn được đưa ra yêu cầu phản tố
Theo quy định tại khoản 3 Điều 200 BLTTDS năm 2015: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”.
Tuy nhiên, điểm hạn chế của BLTTDS năm 2015 là không quy định rõ bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ mấy. Vì một vụ án dân sự có thể mở nhiều phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải khác nhau.
Điều này dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không không nhất giữa các Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, đôi khi là sự “lách luật” để có thể xem xét thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn trong trường hợp bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất.
Từ bất cập nêu trên, hệ thống pháp luật hiện nay cần được xây dựng hoàn thiện và có quy định cụ thể để áp dụng thống nhất đối với vấn đề này trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.